Giáo dục đại học ở một số quốc gia Giáo_dục_đại_học

Giáo dục đại học ở Pháp và Đức

Tòa nhà chính của Viện Đại học Humboldt Berlin ở Berlin, Đức.

Hệ thống giáo dục đại học ở cả PhápĐức nói chung đều nằm dưới sự quản lý của các cơ quan nhà nước. Điều kiện nhập học của sinh viên ở hai nước này tương tự nhau. Ở Pháp có kỳ thi tú tài (tiếng Pháp: baccalauréat) ở cuối bậc trung học. Giáo dục đại học ở Pháp miễn phí và dành cho tất cả các sinh viên đậu kỳ thi này. Sau khi đậu tú tài, sinh viên được nhận vào học năm thứ nhất dự bị ở một viện đại học, đến cuối năm thì trải qua một kỳ thi khác khó hơn. Nếu vượt qua kỳ thi này sinh viên sẽ được phép học trong các viện đại học thêm ba hay bốn năm cho đến khi nhận được bằng đại học đầu tiên, ở Pháp gọi là license.[3]

Tuy nhiên có những khác biệt căn bản trong hệ thống giáo dục giữa hai nước này. Các académie (học khu) của Pháp,[27] nằm dưới sự quản lý của một giám đốc do chính quyền bổ nhiệm và cũng là người giám sát các cơ sở giáo dục đại học trong học khu. Chương trình học đồng nhất trên khắp cả nước khiến các viện đại học khó làm mình khác đi. Vì thế mà nhiều sinh viên chọn đến Paris, nơi có chỗ ăn ở tốt hơn và có cơ hội tiếp xúc với nhiều hoạt động văn hóa. Một khác biệt nữa là Pháp có các cơ sở giáo dục đại học gọi là grand école, nơi có chương trình giáo dục kỹ thuật và chuyên nghiệp bậc cao. Hầu hết các trường này không thuộc các viện đại học, mặc dù họ cũng tổ chức các kỳ thi khắt khe để tuyển những ứng viên đã có bằng tú tài. Các grand école có các chương trình đào tạo trong tất cả các ngành khoa học ứng dụng và công nghệ, và bằng cấp mà các cơ sở này trao được đánh giá cao hơn các license thông thường.[3]

Ở Đức, quốc gia hình thành từ các tiểu quốc hùng mạnh một thời, các viện đại học cấp vùng có quyền tự trị trong việc quyết định chương trình học của mình dưới sự chỉ đạo của các viện trưởng hay hiệu trưởng bầu chọn từ bên trong viện đại học. Sinh viên ở Đức thay đổi nơi học tùy theo sở thích và thế mạnh của từng cơ sở giáo dục. Thực sự sinh viên thường theo học hai, ba, hay thậm chí là bốn viện đại học khác nhau trong suốt khóa học bậc đại học của mình, và phần đông các giáo sư ở một viện đại học giảng dạy ở bốn hay năm cơ sở khác nữa. Mức độ lưu chuyển cao này khiến cho hệ thống giáo dục đại học Đức khác với hệ thống ở Pháp, nơi thiếu sự tự do và tính cá thể.[3]

Cả hai nước đều có ảnh hưởng đến giáo dục đại học ở các nước khác. Thông qua ảnh hưởng lên các nước thuộc địa hay thông qua công tác truyền giáo, người Pháp đã đưa nhiều khía cạnh của hệ thống giáo dục của họ vào Bắc và Tây Phi, vùng Caribe, và vùng Viễn Đông. Trong thập niên 1870, hệ thống các viện đại học của Nhật Bản được phát triển dựa theo mô hình của Pháp. Đặc biệt các grand école của Pháp được lấy làm hình mẫu cho các trường kỹ thuật. Giáo dục Đức thì tạo ảnh hưởng thông qua những khái niệm triết học liên quan đến vai trò của các viện đại học. Người Đức đi tiên phong trong việc nhấn mạnh tầm quan trọng của các viện đại học với vai trò là những cơ sở nghiên cứu, và họ cũng tạo ra cảm nhận về các viện đại học như là biểu tượng của tri thức quốc gia.[3]

Giáo dục đại học ở Anh

Trường Đại học Keble, một trong những trường thành viên của Viện Đại học OxfordAnh Quốc.
Bài chi tiết: Giáo dục Anh Quốc

Các cơ sở giáo dục đại học ở Anh Quốc có một mức độ tự trị cao. Các viện đại học ở Anh gần như hoàn toàn tự trị đối với chính quyền quốc gia và địa phương trong việc điều hành cũng như trong việc quyết định chương trình học, dù cho các cơ sở này nhận tài trợ gần như hoàn toàn từ nhà nước. Điều kiện tuyển sinh ở các viện đại học Anh khá phức tạp. Sinh viên phải lấy được Chứng chỉ Giáo dục Phổ thông (tương tự như bằng tú tài ở Pháp) bằng cách thi đậu các kỳ thi trong nhiều môn học khác nhau. Sinh viên thi đậu các kỳ thi này với thứ hạng càng cao thì càng có cơ hội được vào học ở một viện đại học do mình chọn. Quá trình tuyển sinh khắt khe này, cùng với việc hướng dẫn sinh viên chặt chẽ thông qua hệ thống phụ đạo, khiến hầu hết sinh viện bậc đại học ở Anh có thể hoàn thành chương trình trong ba năm, thay vì thông thường là bốn năm. Các chương trình đào tạo ở Anh có mức độ chuyên môn hóa cao hơn so với chương trình ở các nước châu Âu lục địa. Ảnh hưởng của mô hình giáo dục đại học Anh có thể tìm thấy ở Canada, Úc, Ấn Độ, Nam Phi, New Zealand, và các cựu thuộc địa khác của Anh ở châu Phi, Đông Nam Á, và Thái Bình Dương.[3]

Giáo dục đại học ở Hoa Kỳ

Tháp chuông trong khuôn viên Viện Đại học California-BerkeleyHoa Kỳ.
Bài chi tiết: Giáo dục Hoa Kỳ

Giáo dục đại học Hoa Kỳ khác với châu Âu ở một số khía cạnh. Ở Hoa Kỳ, người ta có cảm nhận chung rằng sinh viên hoàn thành giáo dục trung học nên học ít nhất hai năm ở đại học. Do đó mà rất nhiều các trường đại học tư thục hệ hai năm và trường đại học cộng đồng đã được mở ra để cung cấp hai năm giáo dục bậc đại học, không giống như các trường đại học và viện đại học truyền thống, nơi đa số sinh viên hoàn thành bốn năm học để lấy bằng và nơi có nhiều sinh viên tiếp tục học thêm chương trình sau đại học từ một đến ba năm ở các trường sau đại học. Các viện đại học cung cấp các khóa học bốn năm là các cơ sở tư thục hoặc công lập phụ thuộc vào sự hỗ trợ tài chính của chính phủ. Các trường và viện đại học tư thục dựa nhiều vào số tiền học phí thu được từ sinh viên. Các chính quyền tiểu bang tài trợ cho cho các hệ thống viện đại học công lập quy mô lớn, theo đó bảo đảm cơ hội giáo dục đại học cho phần lớn dân chúng sẵn lòng và hội đủ điều kiện về mặt học thuật để theo học.[3] Trong số những người Mỹ từ 25 tuổi trở lên, 52.6% có đi học đại học, 27.2% có bằng đại học, và 9.6% có bằng sau đại học.[28]

Ở Hoa Kỳ, bằng cử nhân hệ bốn năm thường có được không phải bằng cách thi đậu các kỳ thi mà bằng cách tích lũy các tín chỉ khóa học hay số giờ tham dự lớp học. Chất lượng học tập trong các khóa học này được đánh giá thông qua bảng điểm. Hoàn thành một số các khóa học khác nhau và đạt điểm đậu thì sẽ được trao bằng đại học. Trong hai năm đầu tiên, sinh viên thường theo học các khóa học theo quy định trong một loạt các lĩnh vực khác nhau, cùng với một số khóa học do sinh viên tự chọn. Trong năm thứ ba và thứ tư, sinh viên tập trung vào một hoặc hai lĩnh vực chuyên môn. Sinh viên sau đại học có thể học cao hơn hay làm nghiên cứu ở một trong số nhiều trường sau đại học, thường là những cơ sở có sự chuyên môn hóa cao. Ở những trường sau đại học này, sinh viên học để lấy bằng thạc sĩ (gồm một đến hai năm học sau đại học) hoặc bằng tiến sĩ (gồm hai đến bốn năm học cùng những yêu cầu khác nữa).[3]

Hoa Kỳ có nhiều cơ sở giáo dục đại học công lập và tư thục danh tiếng. Theo các bảng xếp hạng uy tín, khoảng 13 đến 15 trường đại học và viện đại học Hoa Kỳ nằm trong nhóm 20 cơ sở giáo dục đại học đứng đầu thế giới.[29][30] Giáo dục Hoa Kỳ có một đặc điểm đáng chú ý bắt nguồn từ mô hình của Đức là việc coi nhẹ các bài giảng và các kỳ thi. Ở cả hai quốc gia này, sinh viên được đánh giá thông qua thành tích học tập của họ trong các khóa học riêng lẻ, nơi mà việc viết các bài luận và tham gia thảo luận được xem trọng. Mô hình giáo dục đại học Hoa Kỳ được áp dụng triệt để ở Philippines và đã ảnh hưởng đến hệ thống giáo dục Nhật BảnĐài Loan sau Chiến tranh Thế giới thứ hai.[3]

Giáo dục đại học ở Nga

Bài chi tiết: Giáo dục Nga

Giáo dục đại học ở Nga đặc trưng bởi sự quản lý trực tiếp của nhà nước và cho đến năm 1990-1991 nằm dưới sự kiểm soát của Đảng Cộng sản Liên Xô. Các cơ sở giáo dục đại học được chia thành các trường đại học tổng hợp, nơi giảng dạy các ngành nhân văn và khoa học cơ bản; các viện, nơi dạy từng ngành riêng lẻ (ví dụ: luật, y khoa, và nông nghiệp); và các viện bách khoa, nơi có các ngành tương tự như trong các viện nhưng được dạy với một nền tàng khoa học rộng hơn. Một điểm khác biệt khác của hệ thống giáo dục đại học Nga là việc mở rộng đáng kể mạng lưới giáo dục thông qua những khóa học hàm thụ (từ xa) được thiết kế cẩn thận. Những khóa học này được hỗ trợ bởi thêm các chương trình phát trên đài phát thanh và đài truyền hình và được tăng cường thông qua các trung tâm học tập cấp vùng. Nhiều sinh viên do đó có thể học bán thời gian trong khi làm việc toàn thời gian hay bán thời gian. Sinh viên được tuyển vào các cơ sở giáo dục đại học dựa trên cơ sở kết quả các kỳ thi. Thời gian học để lấy bằng cấp đầu tiên mất chừng bốn đến sáu năm, trong đó trung bình là năm năm. Chương trình học bao gồm các môn bắt buộc, thay thế, và tự chọn. Các sinh viên học lấy bằng phải thi hai hay ba môn cơ bản liên quan đến chuyên ngành mà mình chọn. Ở cuối khóa học bậc đại học, các sinh viên đều được nhận bằng như nhau, nhưng sinh viên có thành tích xuất sắc nhất thì được bằng ưu. Hầu hết các cơ sở giáo dục đại học có các khóa học sau đại học cho sinh viên theo học. Các khóa học này thường kết thúc bằng một loạt các kỳ thi.[3]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Giáo_dục_đại_học http://www.stlhe.ca/awards/3m-national-teaching-fe... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/265464/h... http://books.google.com/books/about/The_Community_... http://books.google.com/books?id=WSKIQgAACAAJ&dq=E... http://books.google.com/books?id=wxidAAAAMAAJ&q=Le... http://ssrn.com/abstract=1941070 http://www.thuvienphatgiao.com/buddhistbook/detail... http://www.topuniversities.com/university-rankings... http://www.hanoi.diplo.de/Vertretung/hanoi/vi/09-k... http://sunsite.berkeley.edu/uchistory/archives_exh...